Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2018

Giáo Sư Lê Văn Khoa: Một Người Việt Nam


Cách đây nhiều năm, tôi không còn nhớ chính xác. Qua cuộn phim Hồn Việt Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam do Việt Nam Film Club thực hiện. Lần đầu tiên tôi được biết đến Giáo Sư Lê Văn Khoa qua nhạc khúc Quốc Ca Việt Nam (Sinh Viên Hành Khúc) được trình diễn bởi dàn nhạc đại hòa tấu Ukrainian National Presidential Orchestra.

Mang tâm trạng của người Việt tị nạn Cộng Sản, Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam là cái Hồn Dân Tộc còn lại sau một cuộc dâu bể mà tôi và biết bao thân phận Việt đã phải ngậm ngùi mang theo trong lòng khi rời xa Cố Quốc. Lần đầu tiên sau những năm tháng ly hương, khi nghe lại bài Quốc Ca trong một diễn đàn, nước mắt tôi tràn đầy với những cảm xúc tự hào, đau thương về một giai đoạn lịch sử khốc liệt, có biết bao người đã nằm xuống để bảo vệ vùng đất phương Nam không bị rơi vào họa Cộng Sản. Điều đáng đau buồn là cuộc chiến ấy đã phải rơi vào thuyết định mệnh mà người dân miền Nam đã không thể tránh khỏi.

Ngoài cảm xúc và tự hào qua cuốn phim, tôi không còn nghĩ gì về người giáo sư khả kính Lê Văn Khoa.

Cho đến cách đây hơn nửa năm. Nhân dịp chuyến sang Hoa Kỳ lưu diễn, tôi có được hạnh duyên hội ngộ cùng tác giả ChuLynh, một trong những người đã thực hiện rất nhiều những bộ phim có tính cách giá trị về sử liệu. Cũng từ đó mở ra cho tôi thêm một hành trình mới với những suy tư về những Người đã đóng góp để làm nên giá trị tốt đẹp của một miền Nam an khang và thịnh vượng.

Qua cuộc hạnh ngộ này, tôi được anh ChuLynh nhắc lại tên người nhạc sĩ Lê Văn Khoa. Lúc ấy tôi chỉ biết ông là người đã đưa nhạc khúc Quốc Ca Việt Nam (Sinh Viên Hành Khúc) đến với dàn nhạc đại hòa tấu Ukrainian National Presidenttial Orchestra, với lòng ngưỡng mộ và biết ơn. 

Sau khi trở lại Paris, qua quá trình thực hiện chương trình giới thiệu phim Lê Văn Khoa: Một Người Việt Nam. Lúc ấy tôi mới đi tìm hiểu về Ông, thú thật tôi đã không thể tưởng tượng nổi sự lạc hậu về kiến thức của mình, thật là đắc tội với một bậc tiền bối, một kẻ sĩ Phương Nam đã đóng góp quá nhiều trong sự nghiệp phát huy và giữ gìn những giá trị Văn Hóa của Dân Tộc Việt.

Đến lúc này thì tôi thật sự "tiến thoái lưỡng nan" vì thấy mình "bất xứng" với tên tuổi và giá trị của Ông. Nhưng hình như tôi sinh ra đã mang trong mình căn cốt của một người lính khi xung trận chỉ tiến chứ không lùi.

Từ: "Trò chuyện cùng Lê Văn Khoa nhân triển lãm nhiếp ảnh tại Houston", cho đến "Lê Văn Khoa: Một Người Việt Nam". Hay "Nhạc Sĩ Lê Văn Khoa Trọn Đời Vì Nghệ Thuật" và còn nữa rất nhiều những bài viết, tư liệu nói về cuộc đời và sự nghiệp của Ông đã đóng góp cho dân sinh và xã hội.

Bài viết này tôi muốn nói về Ông như một lời xin lỗi muộn màng, bởi sự "vô tình" của cá nhân tôi, cũng như những thế hệ sau tôi, chỉ lo chạy theo thời cuộc mà quên đi những đóng góp của các bậc Cha, Chú đã dành cả cuộc đời phục vụ cho Đất Nước và Con Người.

Qua những bài viết mà tôi đọc được của nhiều tác giả nói về GS Lê Văn Khoa, trong đó đặc biệt là những bài viết của tác giả Việt Hải, đã để lại trong tôi những suy ngẫm về "Thân Phận và Con Người" miền Nam trước và sau năm 1975, nhất là trong giai đoạn hiện tại, khi mà nền giáo dục đang bị tha hóa bởi chính sách mù lòa của một con voi nằm trong tủ kính, đang kìm hãm sự phát triển của nền văn minh hiện đại, đưa con người trở ngược về thuở hồng hoang đi mở lối.

Tôi không đủ khả năng để phân tách về lĩnh vực Âm Nhạc cũng như những khả năng về Nhiếp Ảnh của GS Lê Văn Khoa, điều đó đã được chứng minh qua các giải thưởng từ Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và nhiều danh nhân trên thế giới khi viết và nói về Ông. Xin được trích dẫn một số thông tin sau đây, để quý vị hiểu và biết thêm về những giá trị mà GS Lê Văn Khoa đã đóng góp cho Quê Hương, và chúng ta có quyền tự hào về những đóng góp của ông trong lãnh vực Âm Nhạc đã được nhiều danh nhân trên thế giới vinh danh và ngưỡng mộ. 

Trích đoạn trong bài viết của tác giả Băng Huyền:

"Năm 1970, trong buổi lễ trao giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc, ông đã vinh dự nhận từ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu cùng lúc hai giải thưởng Âm Nhạc và Nhiếp Ảnh. Lê Văn Khoa còn là người Việt Nam đầu tiên có ảnh được trưng bày tại Quốc Hội Hoa Kỳ và đã từng là giáo sư môn nhiếp ảnh tại Đại Học Salisbury State College, Maryland, năm 1976-1977. Ông cũng là người Việt Nam duy nhất cùng với các họa sĩ Henry Coe, George Founds, James Plum và W. Robert Tolley được Baltimore Museum of Arts (Maryland) tuyển chọn để tài trợ một cuộc triển lãm lưu động lấy tên là “Five From The Eastern Shore” kéo dài từ 1977 đến 1979.". Ngưng trích.

Xin hãy đọc trích đoạn sau đây trong bài viết của tác giả Việt Hải (Los Angeles) để mỗi người trong chúng ta cảm nhận được niềm tự hào về một Người con Đất Việt.

Trích:

"Về việc nhận định Lê Văn Khoa là ai, xin để người xứ ngoài thẩm định hay hơn ý kiến của người viết bài này. Tôi xin trích các nhận xét của giới âm nhạc rút ra vài trích đoạn từ sách "Lê Văn Khoa: Một Người Việt Nam" như sau: 

Trả lời cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh Quốc Gia Úc, Nhạc Trưởng nổi danh của Úc Đại Lợi là Andrew Wailes nhận định về Symphony Việt Nam 1975 của Lê Văn Khoa:

"Symphony Việt Nam 1975 là một tác phẩm rất lý thú. Đây là một tác phẩm thật hay... Như những tác phẩm giao hưởng lớn trên thế giới, nó kể một câu chuyện thật đẹp. Đây là nhạc về con người thật, về một quốc gia thật. Bắt đầu từ những bài dân nhạc diễn tả một quốc gia thanh bình, hào hùng, rồi bị cộng sản xâm chiếm. Nhạc chuyển lần sang âm thanh rất mới, diễn tả sự bất an, đầy bối rối. Người ta chia tay nhau ra đi đến đất nước mới để tìm tự do. Trong hành âm cuối "Ca Ngợi Tự Do", nhạc dàn ra một bài hợp ca thật hay. Nhạc thật lộng lẫy, đồ sộ, thật vĩ đại. Đó là một tác phẩm rất hùng tráng, hiển nhiên những ai hiểu được lịch sử và văn hóa Việt Nam thì sẽ cảm nhận nó một cách sâu sắc hơn. Đây là một sáng tác theo thể loại nhạc giao hưởng Tây phương bởi lẽ tác giả sử dụng cả dàn nhạc đại hòa tấu, sử dụng âm điệu và nhạc cụ Tây phương, nhưng lại có thêm cả âm nhạc dân tộc và nhạc cụ Việt Nam chơi chung với dàn nhạc. Tôi không biết gọi tên cho đúng nhạc cụ đó là nhạc cụ gì, đó là cây đàn một dây (độc huyền cầm, đàn bầu) của Việt Nam. Tác phẩm này hết sức hùng tráng và tôi tin chắc là mọi người sẽ thích lắm... Symphony Việt Nam 1975 là một tác phẩm lớn để thưởng thức... Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là cái mà người Tây phương gọi là nhạc ngũ cung (pentatonic), dùng năm nốt nhạc trong một âm giai, khác với chúng tôi, chúng tôi thường dùng thất cung, bảy âm trong một âm giai. Do đó âm nhạc rất giống nhạc Nhật Bản. Trong tác phẩm này có những đoạn độc tấu rất hay, đặc biệt là sáo... là một loại nhạc của Á Châu. Có điểm rất độc đáo là âm nhạc Tây phương chúng tôi dùng bán cung. Trong nhạc phẩm này đàn violin của chúng tôi phải uốn âm thanh vào phân nửa của bán cung cho phù hợp với âm thanh độc đáo của nét nhạc dân tộc Việt Nam. Việc này thật khác thường. Tiết nhịp thì diễn tấu khá dễ dàng và hòa âm thì có nhiều hợp âm thứ. Nhạc rất hay, rất sắc xảo, tinh vi, có những đoạn thật mong manh, chúng tôi phải hết sức cẩn thận để không đàn quá mức vì sợ rằng phá vỡ không khí êm ả của nhạc... Như chúng tôi được biết thì trong lịch sử 150 năm của ban đại hòa tấu và hợp xướng Royal Melbourne Philharmonic thì đây là lần đầu tiên chúng tôi trình diễn âm nhạc Việt Nam đó là điểm thứ nhất, lần đầu tiên chúng tôi đi tiên phong trình diễn âm nhạc sáng tác tại Á Châu và chưa hề được nghe đến tại nước Úc này. Tôi biết là bản nhạc này đã được trình diễn đôi lần ở hải ngoại, và đây là một sự kiện mới mẻ cho chúng tôi. Đây cũng là lần đầu tiên ban nhạc này được một nhạc sĩ Việt Nam điều khiển, lần đầu tiên chúng tôi cùng trình diễn với ban hợp xướng người Việt, và nói chính xác thì đây là lần đầu tiên chúng tôi đệm cho một ban hợp xướng đa văn hóa. Có nhiều điều làm cho buổi trình diễn này mang ý nghĩa đặc biệt với chúng tôi. Âm nhạc cũng rất khác biệt với loại nhạc mà chúng tôi thường trình diễn... Âm nhạc thực ra là sinh ngữ quốc tế duy nhất. Điều mà tôi thích vì tôi là một nhạc sĩ, thường qua Á Châu và Âu Châu, tôi không nói được tiếng Đức, tiếng Nhật, nhưng tôi dùng tiếng nói của âm nhạc. Tôi thấy ý tưởng đem Đông sang Tây hay Tây qua Đông là ý tưởng rất hay, để tán tụng cái mà mọi người có thể có là âm nhạc, để chia sẻ tâm tình giữa các giống người trên địa cầu với nhau. Và tôi nghĩ văn hóa, nhạc, vũ là những thứ có thể đem con người đến gần nhau... Càng ngày người ta càng nghe nhiều nhạc Á Châu và Âu Châu được trình diễn tại đây (Úc), cho nên tôi nghĩ thật huyền diệu để các nhạc sĩ đến với nhau mà ca tụng âm nhạc..." 

Nhạc sĩ độc tấu Violin, William Benner của dàn nhạc NBC Symphony Orchestra, Hoa Kỳ, nhận xét về nhạc phẩm của Lê Văn Khoa:

"Cả hai nhạc phẩm Nocturne for Violin and Piano và Romance for Violin and Orchestra của Lê Văn Khoa đều đạt mức xúc cảm tột đỉnh trong lòng người."

Nhạc sĩ độc tấu Piano, Giáo Sư Andrea Bambace, (Concert Pianist, judge in major national and inter-national competitions and Professor of piano at the Conservatorio C. Moneverdi of Bolzano, Italy, since 1971), viết về tác phẩm Lê Văn Khoa soạn cho piano:

"’Beautiful Bamboo’ is very beautiful, very sweet, exotic for an Italian like me and full of sensuality. I like it."

Với Tiến sĩ Âm nhạc Ứng dụng (Applied Music) Vicki Riley, người Mỹ, sau khi nghe CD nhạc Lê Văn Khoa cho nhận xét:

"Thật tuyệt! Trong các CD của Lê Văn Khoa tôi nghĩ Memories là hay nhất. Lối viết Tây Phương kết hợp với giai điệu ngũ cung thật hài hòa. Âm thanh trữ tình, tươi mát và luôn luôn thú vị. Các nhạc sĩ Ukraine diễn tả rất đạt và đàn với tài nghệ tuyệt vời. Họ thật sự đã làm nổi bật những ấn tượng và tính chất đam mê của bài nhạc."

Còn Nhạc sĩ Cynthia Acosta nhận xét:

"Who o a a!!!

“Nghe được 30 giây tôi ngưng hết mọi việc đang làm và nhắm mắt lại để thưởng thức. Khi nhạc dứt, nước mắt đã chảy dài trên mặt tôi. Nhạc vĩ cầm cổ điển là loại nhạc ưa chuộng của tôi, và bài Nocturne của Lê Văn Khoa thật kiệt xuất".

Sau những lần bay sang thực hiện âm nhạc với giới nhạc tại Kyiv, Lê Văn Khoa được nhiều nhạc sĩ trong làng nhạc Ukraine ngưỡng mộ. Theo sự nhận định của Giáo sư dương cầm Nina Rodionova khi viết về ông như sau:

"Mỗi bài nhạc trong quyển sách của ông là một bức tranh. Khi tôi nghe nhạc của ông, tôi có thể nhìn thấy Việt Nam với tất cả trù phú thiên nhiên. Nét nhạc của ông là sự kết hợp nguyên thủy tinh túy thi phú Việt Nam và âm nhạc Âu Châu. Nhưng điều quan trọng hơn hết là tôi có thể nghe được những xúc cảm của nhà soạn nhạc, tôi có thể cảm thấu tâm hồn của ông và điều đó luôn luôn phấn kích tôi... Tôi rất biết ơn vì ông cho chúng tôi ánh sáng và nét nhạc quyên rũ của ông. Nhờ ông tôi hiện nay quan tâm đến những gì có liên hệ đến Việt Nam... Trong thư viện tỉnh của tôi có một quyển Thơ Trung Cổ và tôi thích đọc về những nhà thơ rày đây mai đó, là khách viễn phương đi xuyên suốt cuộc đời mình. Quyển thơ đắc ý của tôi là Bạch Vân Thi Tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ thế kỷ thứ 16... Học trò của tôi biết nhạc của ông. Chúng nó đàn bài "Remembrance" và "Dragonfly".... Thưa Nhà soạn nhạc, một lần nữa tôi xin được cám ơn ông đã giúp tôi khám phá ra Việt Nam qua nét nhạc của ông..."

Nhạc sĩ độc tấu vĩ cầm Svyatoslava Semchuk, giáo sư của Nhạc Viện Quốc Gia Tchaikowsky tại Kiev, Ukraine góp ý như sau:

“Tôi rất hân hạnh được gặp Nhà Soạn Nhạc Lê Văn Khoa, được chơi nhạc xúc cảm cao độ và thật lãng mạn của ông. Nhà Soạn Nhạc Lê Văn Khoa đã phong phú hóa nhạc thế giới với những tác phẩm siêu đẳng, đầy nhân bản, ý tưởng tươi mát và tình yêu nồng ấm đối với dân tộc của ông"." Ngưng trích.


Và còn nhiều nữa, nhưng vì giới hạn của một bài viết tôi xin kèm theo Link dưới đây để quý vị có thể tìm hiểu thêm về người nhạc sĩ khả kính Lê Văn Khoa.

Tôi viết về Ông để muốn nói với thế hệ sau tôi rằng: Hãy tìm hiểu thêm về nếp sống của những người đi trước, để thấy rằng tất cả những gì chúng ta đang làm sẽ chẳng là gì so với các bậc tiền bối, với những lo xa về thế hệ tương lai. Ông quan niệm chỉ có con người tốt thì mới tạo ra được một xã hội tốt đẹp. Vì thế khi có cơ hội để phát huy tài năng và sở trường và cũng là niềm đam mê của mình, nhưng ông đã từ chối cái danh bản thân để chọn con đường giáo dục mà ta có thể tìm hiểu qua chương trình "Thế Giới Của Trẻ Em" trên đài truyền hình Việt Nam số 9 trước năm 1975.

Trích:

Ông bảo rằng: "Tôi muốn thấy và nghe tiếng cười thơ ngây trên những gương mặt hồn nhiên của các em. Bởi vì, bom đạn đã làm nụ cười của các em không tươi lên được, thì đến với chương trình, các em phải thật sự vui. Thêm vào đó, tôi muốn chia sẻ với các em những gì mình hiểu biết trong hoàn cảnh khó khăn và bất an của xã hội lúc bấy giờ. Và hơn hết, tôi muốn lấp khoảng trống trong các em, vì lúc đó có gia đình, con mất cha, vợ mất chồng vì cuộc chiến."


Viết về Người Nhạc Sĩ Lê Văn Khoa, có lẽ phải cần đến thật nhiều cuốn sách thì mới chứa đựng đủ những tinh túy bao gồm Âm Nhạc, Nhiếp Ảnh, Hội Họa cùng với biết bao chương trình giáo dục do Ông đảm trách. Điều khiến tôi kính trọng Người Nhạc Sĩ đó là nhân cách sống mà ông đã được truyền thừa từ người Cha là một Mục Sư Cơ Đốc Giáo. Tôi thích nét mặt rất miền Nam của Ông, hiền hòa, sảng khoái như những cánh đồng lúa chín được mùa. Nhìn ông, tôi nuối tiếc về một quá khứ đã mất, một quá khứ với những con người chất phát, thật thà. Biết tôn Sư, trọng Đạo dựa trên Ngũ Thường mà đối nhân xử thế.

Ngày nay, đất nước đang rơi vào cảnh diệt vong. Văn Hóa mất. Dân khí lụi tàn. Ngôn ngữ cũng đang bị hủy diệt cho âm mưu hán hóa mà lũ cường quyền đang cố gắng thực hiện cho xong hiệp ước dâng đất, dâng biển cho tàu cộng để được vinh thân phì da.

Điều khiến tôi lo ngại là: Tre đã già mà măng chưa mọc. Ngày hôm nay, chúng ta có thể nhìn thấy sự thành công của những người trẻ khắp nơi trên thế giới. Nhưng rất khó tìm ra những trái tim ấp ủ một Tâm Thức Việt đúng nghĩa? "Đa số" mang tính hình thức chỉ để phục vụ cho cái riêng hơn là cái chung. Chính vì thiếu cái nền tảng của "Nguồn Cội", nên chúng ta dễ chạy theo sự kiện và hiện tượng, tạo cơ hội cho lũ cường quyền tung thêm những hỏa mù mà thực chất chỉ là những con chốt thí của chúng.

Biết nói sao khi mỗi người trong chúng ta đều là những thực thể riêng lẻ. Sự kết hợp quả là một điều không tưởng trong bối cảnh nhiễu nhương này. Chúng ta lại thua và thua mãi hay sao? Kết quả luôn là những sự thật đắng lòng mà chỉ những ai đang tự ru ngủ chính mình thì mới thấy được con số “thành công” nhưng thực chất là đang chốn chạy cái mặc cảm của người “thua cuộc”.

Ngẫm lại, tôi thấy thật đau đớn cho những người cả đời bỏ tâm huyết cho một nền giáo dục tốt đẹp, chỉ mới 43 năm thôi, tất cả đều bị thiêu hủy dưới ngọn cờ máu đã và đang vẫn tiếp tục phất lên nhuốm máu đồng bào bằng những cái chết không cần tốn một viên đạn. Đất nước tôi đang cùng nhau cuối đầu chờ chết, người đứng ngẩng cao đầu thì bị trù dập trong chốn lao tù. Tôi đau đớn nhìn quê hương bị bức tử bởi một nhóm người rất ít, nhưng bên cạnh đó là hằng khối người bu quanh tiếp tay cho lũ dòi bọ thực hiện kế hoạch bán nước cho tàu cộng. Họ là ai? Họ là những kẻ được hưởng lợi từ cái nhóm người rất ít này, chỉ biết sống cho bản thân và gia đình mình mà quên rằng; Một khi đất nước rơi vào tay tàu cộng thì chính họ sẽ là nạn nhân cho một chính sách diệt chủng mới, mà chúng ta có thể nhìn qua đất nước Tây Tạng ngày hôm nay để làm bài học cho mình.

Trước khi chưa thể làm được điều gì đó…chỉ cần trang bị cho mình một nếp sống tử tế, tự lập cánh sinh, không thỏa thuận với điều ác, chỉ đơn giản thế thôi, thì cái nhóm lợi ích riêng ấy làm sao có thể tồn tại một khi bị chối bỏ từ những con người tử tế. Lòng tham, hèn nhát, ngu muội là nguyên nhân nuôi dưỡng lũ dòi bọ đang thống trị đất nước này.

Tôi kính trọng những người như GS Lê Văn Khoa. Làm rất nhiều, nhưng nói rất ít. Ông khiêm nhường đến độ ít còn người Việt nào biết đến, ngoài một tầng lớp trí thức xưa cũ. Tôi nói vậy có thể do chủ quan, nhưng thật sự tôi đã khảo sát một số những người trẻ từ trong nước và hải ngoại, dù không nhiều. Nhưng kết quả cho thấy một sự thật đắng lòng. Đây là hậu quả của sự “vô ơn” bởi những người như tôi, những người chỉ biết gặt hái nhưng quên đi nhiệm vụ gieo mầm. Thể chế Việt Nam Cộng Hòa đã không còn, nhưng tinh thần Cộng Hòa sẽ không thể chết, nếu chúng ta vẫn tiếp tục nuôi dưỡng đúng cách. Tư tưởng của GS Lê Văn Khoa là tư tưởng được hấp thụ từ Đông sang Tây, được Ông gạn lọc và kết hợp qua Âm Nhạc mà chúng ta có thể nghe những danh nhân về âm nhạc trên thế giới khi nói về Ông. Chúng ta đang đứng chỗ nào trong số người “ ngoại quốc” ấy?

Tâm tình với GS Lê Văn Khoa

Thưa chú! Con mượn diễn đàn này, nơi con luôn gửi gấm tâm sự để tâm tình cùng chú. Ngày 8 tháng 4 này tại Paris, con và Đình Đại rất hân hạnh được anh ChuLynh giao phó trách nhiệm giới thiệu DVD Lê Văn Khoa: Một Người Việt Nam. Con xin chú hãy cho chúng con một bài học “Thức Tỉnh”. Hãy cho chúng con được sống lại tinh thần TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO mà hiện nay nơi quê nhà đang bị lũ cường quyền đem vất sọt rác, làm tan nát cả một hệ thống giáo dục mà chú cũng là một trong những người đã bỏ công xây dựng qua nhiều hình thức mà con đã có dịp tìm hiểu trong thời gian qua.


Lời kết:

Tôi mong rằng… chúng ta. Những người còn đang quan tâm đến vận nước, xin hãy quay về cái gốc “Cội Nguồn” của mình để làm nền tảng. Dân Chủ - Nhân Quyền tự nó sẽ được khai sáng một khi dân trí được nâng cao. Dân trí đến từ Giáo Dục. Giáo dục chỉ có thể phát triển một khi không còn sự hiện diện của lũ cường quyền. Muốn chấm dứt “tà quyền” ngoài những vận động theo cái thế chung của quốc tế, trong giai đoạn chưa có được những chiến lược cụ thể, điều mà chúng ta cần và nên làm là “BẢO TỒN VĂN HÓA VIỆT”. Muốn bảo toàn Văn Hóa Việt thì không thể quên những người đã góp phần tạo nên nền Văn Hóa tốt đẹp mà chúng ta đã được hưởng trong nhiều thập niên qua.

Hãy quay về với CỘI NGUỒN DÂN TỘC. Mong lắm thay.

30 tháng 3 năm 2018
Thu Sương 

CON ĐƯỜNG VIỆT NAM

Thứ Ba, 20 tháng 3, 2018

On The Way Home - Đường Về Quê

Hai Bản Nhạc "Trở Về"


"Torna a Surriento" ("Hãy Trở Lại Surriento") là một bài hát tiếng Napoli được sáng tác năm 1902. Người anh Giovanni Battista (còn gọi tắt là Giambattista) De Curtis đặt lời và người em Ernesto De Curtis đặt nhạc.

Lời hát trong Torna a Surriento là lời trách móc một chàng trai đang bỏ Sorrento ra đi, bỏ lại biển xanh với những cổ vật dưới đáy, và trên mặt nước những nàng nhân ngư đang đắm đuối nhìn theo, bỏ lại những khu vườn thân thương vương thoảng mùi hoa cam dịu dàng…, cùng với lời nhắn nhủ “Hãy trở lại Sorrento!”

Như những ca khúc nổi tiếng có phần âm nhạc tuyệt đẹp, Torna a Surriento được chuyển thành nhạc không lời cho violon, piano, nhạc thính phòng và cả cho dàn đại hòa tấu.

Hãy nhìn mảnh vườn với mùi hương cam,
Mùi hương thơm ngát thấm vào trái tim.
Bạn nói “Ta đi! Tạm biệt.”
Lìa xa tấm lòng này, xa mảnh đất tình ái.
Bạn đành lòng không quay lại?
Nhưng xin đừng rời xa, đừng làm tôi đau buồn.
Hãy trở lại Sorrento. Để tôi được hồi sinh…

Nhạc sĩ Mạnh Phát và Phạm Duy, mỗi người đặt lời tiếng Việt riêng nhưng đều lấy cùng tựa "Trở Về Mái Nhà Xưa". Giai điệu mềm mại, buồn nhưng không thê thiết của ca khúc có thể diễn tả những tâm trạng khác nhau nhưng đều chung nỗi thiết tha. 

Ngay những nốt nhạc đầu tiên đã hút hồn người! Lãng đãng, buồn như lòng khách tha hương mơ về quê nhà yêu dấu. "Về đây khi mái tóc còn xanh xanh. Về đây với màu gió ngày lang thang..."

Điệp khúc, nhạc chuyển qua ngọt ngào, êm ái "Mái tóc nhà lưu luyến vạt trăng xanh. Nếu mưa về yêu lấy hạt long lanh..."  Kỷ niệm, chợt ùa về, khiến lòng bồi hồi xao xuyến. Nhưng ... lữ khách như bừng tỉnh. Bàng hoàng, xót xa. Nhạc đột ngột chuyển từ âm giai Trưởng sang Thứ. "Và nghe thấy kiếp xưa bước nhẹ về. Đang khóc than trên đường não nề ..." Ôi ! Quê nhà thật đã ngàn trùng xa ...

Dean Martin - Come Back To Sorrento (Lyrics)

"Torna a Surriento" (Ernesto De Curtis) – Bản chuyển thể cho đàn dương cầm

"Trở Về Mái Nhà Xưa" Lời Việt Phạm Duy – Giọng hát Anh Ngọc – Hòa âm Vũ Thành

***

"Trở Về Mái Nhà Xưa" cũng là tâm tưởng của hàng triệu người Việt tha hương - trong đó có Lê Văn Khoa . Và người Nhạc Sĩ đã hướng trái tim về mái nhà xưa qua tác phẩm viết cho đàn piano "On The Way Home "  (tạm dịch: Đường Về Quê).
 
Nhưng, trái ngược với âm điệu trầm buồn của khúc hát từ vùng đất Naples, nhạc phẩm của Lê Văn Khoa bắt đầu ngay bằng chuỗi nhạc linh hoạt. Tiếng đàn piano tung tăng như vó ngựa đang rong ruổi trên đường về quê. Những nốt nhạc dồn dập, có khi như quấn vào nhau, như tâm trạng lữ khách với chập chùng cảm xúc.

Đột nhiên, nhạc chậm lại. Những nốt nhạc rời rạc như tâm hồn lãng đãng hồi tưởng về những ngày xưa yêu dấu. Mà, sao nghe như có chút gì đó nghi ngại, có chút gì đó xót xa...

Nhạc bỗng chuyển hẳn qua một cung điệu khác. Những nốt nhạc tách rời, khi mạnh mẽ, khi nhẹ nhàng, khi như ngưng hẳn lại ... Những nốt nhạc thật mong manh như ai đó đang rón rén từng bước, từng bước. Ai đó đang đứng lặng trước thềm nhà, buồn buồn, tủi tủi, dường có, dường không, như tỉnh, như mơ...

Và, nhạc đột ngột bùng lên như tình cảm vỡ òa.  Những nốt nhạc nối nhau liên tiếp, dồn dập như những vòng tay ôm chặt bờ vai. Cảnh trùng phùng đầy nước mắt nhưng sao ngọt ngào đầm ấm, thương yêu.

"On The Way Home" (Lê Văn Khoa) – Song tấu dương cầm

Không hiểu tại sao mắt tôi luôn đẫm lệ mỗi khi nghe nhạc khúc này, dù On The Way Home không buồn xa vắng như Trở Về Mái Nhà Xưa,  không não nề như Đêm Đông, cũng không bàng bạc như Bên Cầu Biên Giới.  Phải chăng những nốt nhạc tuy không lời nhưng soi rõ tâm tình kẻ xa quê?

Và, người nhạc sĩ, phải chăng, đã chất nhung nhớ trọn vẹn vào từng nốt nhạc, khiến vó câu nhẹ nhõm reo vui mà lòng người lại nặng trĩu cảm thương.

Trịnh Bình An

 Xin mời đọc thêm về Lê Văn Khoa trong website:







Thứ Ba, 13 tháng 3, 2018

Cái Lon Guigoz

Không biết vô tình hay hữu ý mà trong hành trang lên đường của tôi có chiếc lon guigoz. Guigoz là lon sữa bột của nước Hòa Lan sản xuất. Hầu hết trước năm 1975, con cái của công chức, quân nhân và gia đình khá giả đều uống loại sữa này. Vợ tôi để dành những cái lon không để đựng những đồ gia vị gồm bột ngọt, tiêu, đường, muối, mỡ… vì vừa nhẹ, vừa sạch và vừa kín. Khi đậy nắp lại không có con kiến nhỏ nào chui lọt.
Trong “ba – lô” (túi xách nhà binh) đi học tập cải tạo của tôi có đến hai chiếc lon guigoz. Một cái đựng bàn chải đánh răng và kem súc miệng. Còn cái kia đựng thuốc ngừa sốt rét, thuốc đau bụng và hai chai dầu gió. Đó là những việc mà vợ tôi lo xa. Ngày 27 tháng 6 năm 1975 là ngày tôi đến trường nữ Trung Học Gia Long, đường Phan Thanh Giản, Quận 3, Sài Gòn, trình diện.Sau mấy tháng không làm việc gì nặng nhọc, khi mang ba - lô trên vai đi bộ độ mươi bước thì tôi cảm thấy người như chùng xuống. Tôi thầm trách vợ tôi:”đã nói học tập có mười ngày, đem theo đồ gì gọn nhẹ mà sao không nghe”. Đến trường Gia Long ở hai ngày một đêm mà tôi không buồn soạn cái ba- lô, coi trong đó đựng những thứ gì. Tôi chỉ lấy chiếc lon guigoz đựng kem súc miệng và cái khăn mặt để sử dụng hàng ngày. Thật là tiện lợi khi dùng nó vì nó chứa được nhiều nước.
Ngày 29 thang 6 năm 1975,tôi đến trại tù ở Suối Máu Biên Hòa. Sau khi điểm danh và phân chia nhà ở xong, việc đầu tiên của tôi là xách chiếc lon guigoz đi tìm nước súc miệng.Đi một vòng xung quanh trại mà tôi chẳng thấy có cái lu, cái khạp, hay cái thùng phi nào chứa nước sẵn. Chỉ có một cái giếng duy nhất để chứa nước nấu ăn. Có giếng nước mà trại lại không phát thùng múc nước. Làm sao lấy nước lên được khi độ sâu của giếng khoảng hơn mười thước. Tôi đành xách chiếc lon guigoz đi về nhà ở. Thấy ai nấy đều đem mùng ra kiếm chỗ treo lên, tôi cũng mở ba- lô lấy cái mùng “nhà binh” màu xám( loại mùng bằng vải nylon, phía trên nóc và xung quanh chân mùng có bốn sợi dây, mỗi sợi dài hơn ba thước.)
Một ý nghĩ bỗng thoáng qua trong đầu tôi là tại sao tôi không lấy bốn sợi dây này nối lại(” một cây làm chẳng nên non”), xong buộc vào lon guigoz mà lấy nước từ dưới giếng lên. Tôi liền thực hành ngay. Quả thật tôi đã lấy nước một cách dễ dàng, không những cho tôi mà còn cho những bạn tù khác.
Đến 8 giờ 30 cùng ngày, cả nhà( gồm 44 người) ngồi lại bầu một nhà trưởng và một người phụ trách nấu ăn. Quái ác, một thằng bạn thấy tôi có sáng kiến lấy được nước từ giếng sâu lên, nó liền đề cử. Thế là cả bọn dơ tay tán thành.
Khởi sự đi nấu vào lúc 9 giờ sáng mà mãi đến 2 giờ chiều mới có cơm ăn. Độc nhất, chỉ có rau muống luộc bằng nước giếng. Nước dùng để vo gạo và rửa rau, kể cả nước để vô chảo để nấu cơm và luộc rau, cũng chỉ dùng chiếc lon guigoz lấy nước từ dưới giếng lên. Còn củi để chụm là những khúc cây cao su bằng bắp chân cưa ngắn lại độ ba gang tay còn xanh. Làm sao nhúm lửa được mà nấu? Trại tù không phát dao cũng không phát búa, sợ tụi này dùng vật bén nhọn tấn công tụi nó.
Tôi lại một phen đi đào lấy cọc sắt” ấp chiến lược” loại ngắn độ hơn gang tay để chẻ củi. Sau đó, đi lấy bao cát nylon để đốt cho cây củi cao su khô đi mới bắt cháy được. Thật là nhiêu khê!
Sau khi làm bếp xong, tôi lấy một lon guigoz nước để” tắm búng”(thắm nước cho ướt mình mẩy rồi lấy tay se se cho đất tróc ra, xong búng nó đi)
Có một hôm trời mưa to. Cả bọn mừng rỡ chạy ra tắm mưa dưới những mái tôn nhà đang ở. Bỗng nhiên mưa đứt hột một cách đột ngột. Cả bọn nhìn nhau cười ngặt nghẽo vì đầu cổ mình mẩy đứa nào đứa nấy đều dính đầy bọt xà bông, trông rất thảm hại! Chiếc lon guigoz lại lần nữa giúp cho bọn tù chúng tôi rửa sạch bọt bèo xà bông.
Có nhiều đêm tôi muốn đi ngủ sớm vì quá mệt nhọc trong công việc nhà bếp nhưng mấy thằng ban đâu có tôi  nằm yên, tụi nó thay phiên nhau tới chỗ tôi nằm để mượn chiếc lon guigoz. Đã mười giờ đêm mà tôi vẫn chưa ngủ được vì lấy lon guigoz đi, thì bốn sợi dây giăng mùng cũng đi theo.
Sau hơn một tháng, vào ngày 9 tháng 7 năm 1975, chúng tôi chuyển trại bằng đường bộ từ Suối Máu xuống An Dưỡng(Biên Hòa). Dọc đường, chiếc lon guigoz lại giúp tôi đỡ cơn khát. Ở trại mới, so với trại cũ có phần thoáng mát hơn. Cũng xử dụng nước giếng nhưng trại phát cho thùng xách nước. Còn củi thì trại có đưa búa cho chẻ củi. Cho nên chiếc lon guigoz lúc này dùng việc “ca cống”(là dùng ca và lon guigoz bằng nhôm nấu ăn hoặc nấu nước uống bằng than của nhà bếp)
Ở chung trại có anh bạn tù tên là Tuấn. Anh ta có một thân hình lực sĩ đẹp nhất trại nhưng vì anh ta hay bắt chuột làm thịt ăn nên cả bọn chúng tôi kêu anh ta bằng Tuấn chuột. Một đêm trăng, tôi nằm thao thức mãi không  ngủ được, một phần thì nhớ nhà, một phần thì bụng đói cồn cào. Tôi ngồi dậy, nhìn ra ngoài trời, dưới ánh sáng của vầng trăng tròn, tôi thấy hai con chuột đang tìm cách tha cái lon guigoz của Tuấn Chuột. Một con chuột nằm ngửa, bốn cẳng của nó ôm chặt chiếc lon guigoz, còn con kia cắn đuôi con chuột nằm ngửa mà kéo đi nhưng vì miệng hang quá nhỏ nên chúng không thể nào đem cái lon guigoz vào được.
Ngoài ra chiếc lon guigoz cũng giúp tôi khỏi bị bệnh tê liệt một thời gian ngắn. Số là ở trại tù An Dưỡng, bọn quản lý trại giam đã cho chúng tôi ăn gạo ẩm(gạo cũ bị bể nát). Chỉ trong một tuần lễ là tất cả chúng tôi đều đi đứng không được mà phải bò bằng tay và hai đầu gối. Tuấn Chuột là người khỏe mạnh mà cũng bị bò. Riêng tôi, tôi vẫn đi đứng bình thường. Bởi trong khi đi lao động gần nhà bếp trại, tôi thấy bọn chúng vo gạo trắng,tôi liền lấy lon guigoz xin một lon đầy nước cơm vo. Mãn giờ lao dộng, tôi trở về ”lán”(chỗ ngủ của tù cải tạo) để bắt đầu giờ ca cống. Tôi xin chút than nhà bếp để nấu nước cơm vo này. Nhờ có nước cơm vo( có chất vitamin B1) mà tôi không phải bị bò. Thấy tôi đi đứng bình thường, mấy thằng bạn nói tôi có nhiều thuốc vitamin B1 nên khám ba- lô của tôi. Đến khi lục soát xong, bọn chúng mới biết tôi chỉ có mấy viên thuốc ngừa sốt rét mà vợ tôi đã cẩn thận bỏ trong hành trang của tôi. Sau đó, Ban Quản Lý trại mới mua gạo lức về nấu cho chúng tôi ăn để khỏi bị bệnh tê liệt.
Ở trong trại, tôi có ăn chung với một thằng bạn tên Hoa. Nhân ngày lễ của bọn chúng, chúng tôi mỗi thằng được trại ”ưu ái” phát cho một cục thịt heo bằng ngón tay cái. Chúng tôi đâu dám ăn liền mà bỏ vào lon guigoz rồi lọc nước muối đổ đầy vào lon nấu thịt cho ra nước mỡ để hai đứa ăn một tuần lễ vì trại trừ phần ăn bảy ngày.guigoz1
Ngày 17 tháng 6 năm 1977, chúng tôi chuyển trại từ An Dưỡng đến Căn Cứ 5 Rừng Lá,thuộc Hàm Tân, Phan Thiết (trại Z30D). Thời gian ở trại này có thêm đội nữ ( gồm có các chi quân nhân và các chị ở Biệt Đội Thiên Nga Cảnh Sát). Tội nghiệp! Các chị đều bị bệnh vì chế độ ăn uống ở đây quá khắc nghiệt. Trong lúc này, tôi ở Đội Nhà Bếp. Hàng ngày, ngoài việc nấu cơm và luộc rau muống, tôi còn phải nấu một chảo nước sôi để chia cho đội nữ. Lợi dụng việc đi lại với nhà bếp, các chị đã gởi cho tôi sáu cái lon guigoz để gởi tôi nấu dùm. Đố các bạn biết trong đó đựng những gì? Xin thưa: đó là đậu xanh hột. Số là trong khi các chị đi thu hoạch đậu xanh, các chị đã giấu lại không nộp hết rồi bỏ vô lon guigoz đem xuống nhà bếp nhờ tôi nấu chín.
Có lần tên cán bộ( lúc này Công An Quản Lý) nhà bếp hỏi tôi nấu cái gì trong đó. Tôi nói là nấu nước sôi cho đội nữ. Hắn ta thắc mắc hỏi. Tại sao anh nấu một chảo nước sôi mà không đủ chia? Tôi giải thích rằng họ cần nước đun chín để uống thuốc. Thế là thoát nạn.
Trong thời gian cải tạo, người tù như chúng tôi đều trải qua những cơn đói khát kinh hoàng. Chiếc lon guigoz đã nuôi sống chúng tôi trong những cơn hoạn nạn. Chiếc lon guigoz là vật bất ly thân, đã đi theo chúng tôi từ trại tù này đến trại tù khác. Chiếc lon guigoz là người bạn đường thân thiết của tôi. Chiếc lon guigoz cũng là hình ảnh, là báu vật mà suốt cuộc đời của người tù cải tạo không quên được.
HOÀNG CHƯƠNG.

Thứ Ba, 6 tháng 3, 2018

TRƯNG NỮ VƯƠNG


Mê Linh, địa linh nhân kiệt
Mở đầu: Mê Linh là một địa danh lịch sử mà hầu hết người dân Việt đều nghe nói tới. Đó là nơi đóng đô của Trưng Nữ Vương (40 – 43)
“Đô kỳ đóng cõi Mê Linh”
“Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.” (Đại Nam Quốc Sử diễn ca)
Trước khi tìm hiểu thêm về đất Mê Linh, chúng ta cùng ôn lại vài nét sơ lược về lịch sử khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đánh đuổi thái thú Tô Định về Tàu.
Chính sách cai trị độc ác của nhà Hán: Năm 111 trước Tây Lịch, nhà Hán tiêu diệt nhà Triệu và chiếm cứ nước Nam Việt, chia ra 9 quận để cai trị. Những tên Thứ Sử và Thái Thú sang cai trị nước ta thời đó, đa số đều tham lam, tàn ác. Nhất là tên thái thú Tô Định và đám quan lại dưới
quyền. Chúng vơ vét châu báu, bạc vàng trong nưóc Nam đem về Tàu, bắt dân Nam xuống biển mò ngọc trai, lên rừng kiếm ngà voi, dân tình khổ ải nên căm hận khôn xiết.
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (năm 40): Vì chính sách cai trị độc ác của nhà Hán,do tên thái thú Tô Định thi hành đã khiến dân Lạc Việt sục sôi máu căm thù. Nhân việc Tô Định bức hại ông Thi Sách là chồng bà Trưng Trắc, con gái quan Lạc Tướng ở huyện Mê Linh, Hai Bà Trưng đã cùng phất cờ khởi nghĩa. Theo sử gia Trần Trọng Kim “Vợ Thi Sách
là Trưng Trắc, con quan Lạc tướng ở huyện Mê Linh (làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phúc) cùng với em là Trưng Nhị, nổi lên đem quân về đánh Tô Định. Bọn Tô Định phải chạy trốn về quận Nam Hải".(tỉnh Quảng Đông)
Hai Bà Trưng tấn công và chiếm thành Luy Lâu (Liên Lâu) là cơ quan đầu não của Tô Định và đoàn quân xâm lược. Quân Hán bị tiêu diệt và bị bắt toàn bộ. Tô Định chạy thoát về Tàu.
Chẳng bao lâu, Hai Bà Trưng đã hạ được 65 thành quách của giặc và thu về bốn quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố (thuộc Quảng Đông tức tỉnh Quảng Châu bên Tàu ngày nay).
Hai Bà Trưng lên ngôi báu, tức Trưng Nữ Vương, chọn Mê Linh là kinh đô, làm vua được ba năm mới bị nhà Hán sai Mã Viện sang đánh chiếm lại.
Mê Linh địa linh, nhân kiệt: Huyện Mê Linh ngày nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc (Vĩnh Yên và Phúc Yên), là miền rừng núi trung châu Bắc Việt, cách Hà Nội khoảng 60 Km. về hướng đông nam, bắc giáp Tuyên Quang, Thái Nguyên, tây giáp tỉnh Phú Thọ và tây nam giáp Hà Tây. Thời Bắc thuộc, huyện lị là Mê Linh (nay ở làng Hạ Lôi), thủ phủ đầu tiên của quận  Giao Chỉ , đến đời Tề (501 AD) mới bỏ 
Huyện Mê Linh là quê hương cuả hai vị nữ anh hùng dân tộc Trưng Trắc và Trưng Nhị, Mê Linh cũng là kinh đô triều đại nhà Trưng. Hiện nay còn dấu vết thành cổ đắp đất , rộng hơn 100 mẫu ta (khoảng 800 ngàn mét vuông) chiều dài khoảng 1700m, chiều rộng nhất là 500m, ở làng Hạ Lôi, huyện Mê Linh.
Lễ Hội tại đền Hạ Lôi (Mê Linh) diễn ra vào ngày 6 tháng giêng âm lịch hàng năm, nơi thờ Hai Bà Trưng và ông Thi Sách. Có tục rước kiệu và các trò vui dân gian. Tương truyền đây là ngày khao quân của Hai Bà.Trưng..
Cũng nên biết thêm lễ kỷ niệm hai Bà Trưng được tổ chức tại khắp nước VN và tại Hải Ngoại vào ngày mồng 6 tháng 2 âm lịch, là ngày hai Bà đã phải nhẩy xuống sông Hát tự tận năm 43 sau khi bị lực lượng quân Hán do Mã Viện chỉ huy đánh bại.
Thành Luy Lâu (Liên Lâu):
Nói đến Mê Linh và lịch sử khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đánh đuổi thái thú Tô Định về Tàu, ta không thể không nhắc đến địa danh lịch sử “thành Luy Lâu”.
Thành Luy Lâu (Liên Lâu) “tên Việt gọi là Dâu, tiếng Hán là Duy Lâu, quận trị Giao Chỉ huyện về đời Hán vừa là lỵ sở bộ Giao Chỉ. từ 111 đến 105 tr. TL (sau dời đến Thương Ngô), ở xã Lũng Khê, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách sông Đuống 5km về phía bắc , trên sông Dâu.” (Đinh Xuân Vịnh - Sổ Tay Địa Danh VN).

Kết quả khảo cổ cho biết:
- Luy Lâu là nơi cư trú – Trung tâm kinh tế và văn hóa của người Việt cổ trước CN
- Luy Lâu cũng là trị sở của quận Giao Chỉ và Giao Châu thời thuộc Hán
- Luy Lâu là trung tâm thương mại của VN thời Bắc thuộc
- Luy Lâu là trung tâm hội nhập, tiếp xúc văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo
Đánh chiếm thành Liên Lâu (Luy Lâu):
Cuộc tấn công thành Luy Lâu tức Liên Lâu của Hai Bà Trưng năm 40, là đánh thẳng vào cơ sở đầu não của quân Hán do Tô Định cầm đầu. Cũng vì cơ quan đầu não của địch bị phá vỡ, chủ tướng bỏ chạy về Tàu, nên 65 thành quách của địch ở rải rác khắp nước Nam mới mau chóng bị nghĩa quân của Hai Bà Trưng đánh chiếm.
Hai Bà Trưng dựng nền Độc lập
“...Bà Trưng quê ở châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân,
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên. (trị sở Giao châu, vùng Thuận Thành)

Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thành.
Đô Kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.
Ba thu gánh vác sơn hà ,
Một là báo phục, hai là bá vương...”
(Lê Ngô Cát – Sách đã dẫn tr. 74, 75)
Kết Luận: Mê Linh và Luy Lâu đều là những địa danh lịch sử Việt Nam, nay dấu vết thành quách cổ xưa chỉ còn lại nền đất cỏ mọc xanh rì hoặc là bờ ruộng, nương dâu, lơ thơ có vài căn nhà tranh vách đất.
“Dấu xưa xe ngựa, hồn thu thảo”
“Nền cũ lâu đài, bóng tịch dương.” (Bà Huyện Thanh Quan)
Mê Linh chính là kinh đô một thời Hai Bà Trưng giành về độc lập trong một thời gian ngắn ngủi 3 năm, và Luy Lâu là nơi ghi nhớ chiến công hiển hách của Hai Bà Trưng, đánh đuổi giặc Hán cùng Tô Định về Tàu.
Nhắc đến Mê Linh và Luy Lâu là nhắc đến trang sử Việt oai hùng vậy.
Vương Sinh
-------------------------------
Sách tham khảo:
- Việt Nam Sử Lược (Q. 1)- Trần Trọng Kim
- Lịch Sử Dân tộc Việt Nam (Q. 1) - Phạm Cao Dương
- Sổ tay địa danh Việt Nam – Đinh Xuân Vịnh
- Một thế kỷ khảo cổ học Việt Nam - Tập II
- Non nước Việt Nam – Sách hướng dẫn du lịch
- Từ điển địa danh văn hóa và thắng cảnh VN – NXB – KHHN
- Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca – Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái - NXB Xuân Thu.
- Tuyển Tập Kịch Thơ Bất Khuất – Song Thuận – HSV xuất bản năm 2006
- Tài liệu trên Internet

Hậu Duệ VNCH Hải Ngoại

Tâm Thư Hậu Duệ VNCH Hải Ngoại

Kính thưa các bậc trưởng thượng, quý đại diện các hội đoàn, toàn thể quý Dân – Quân- Cán - Chính VNCH, quý truyền thông báo chí và các anh chị em hậu duệ VNCH thân mến!
Bánh xe lịch sử nghiệt ngã đã giày xéo lên quê hương hoa gấm Việt Nam bằng những mưu đồ tham cuồng của cộng sản phương Bắc, công cụ của cộng sản quốc tế khởi điểm bằng các cuộc thảm sát, đấu tố, cải cách ruộng đất và nhân văn giai phẩm, huỷ diệt tinh hoa dân tộc và tàn phá tình tự quê hương.
Dưới sự an bài của các cường quốc, đất nước rơi vào cuộc chiến tàn khốc kéo dài hơn 20 năm máu lửa, đã làm cho mẹ phải khóc con, vợ phải xa chồng, anh phải xa em và những đứa trẻ mồ côi lạc loài trên đường phố hay những ánh mắt ưu tư sợ hãi nhìn về bên kia bờ vỹ tuyến.
Để rồi ! đồng bào di cư, những nạn nhân của cộng sản, và dân miền Nam hào phóng đã lập nên nền Đệ Nhất Cộng Hoà, lý tưởng đến cả các chính giới của những nước Á Châu thời bấy giờ phải thèm khát. Lý tưởng ấy là Bảo Quốc An Dân với chính nghĩa Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm.
Chỉ vỏn vẹn hai thập niên, các bác, các cô chú đã bao lần chứng tỏ lòng qủa cảm, khí phách hào hùng và nhân bản trước chính sách bá quyền của cộng sản xâm lược.
Miền Nam Viet Nam ta xây dựng và kiến tạo đời sống thanh bình ấm no dù đối phương ra sức gây chiến và tàn phá. Bao chiến công hiển hách của lính chiến Cộng Hoà ghi tạc vào lịch sử và lòng người: Mậu Thân, Mùa Hè đỏ lửa, tái chiếm cổ thành Quảng Trị, Khe Sanh, An Lộc và bao chiến tích oai hùng khác nữa.
Người Lính VNCH chiến đấu vì chính nghĩa, vì tình yêu giang sơn, vì sự an nguy cho dân, chứ không vì hận thù và oán hờn. Oái ăm thay khi sự nghiệp chưa thành, chí hùng còn dang dỡ thì chúng ta bị bỏ rơi. Và phải hứng chịu những đòn thù cay độc.
“Cuộc hý trường tan tác
Kẻ tù nhân lưu đày
Bao người ra lưu lạc
Chim đàn tan tác bay”
Sau cuộc ly loạn tan hoang 30/4 miền Nam tang thương hoang phế. Những tinh hoa ưu tú bị triệt tiêu và hãm hại. Bao trại tù khổ sai và nhà tù nhỏ hàng loạt mở ra trong một nhà tù lớn bao trùm đất nước Viet Nam.
Nhìn những đàn con đến vùng kinh tế mới sao thắt ruột, xót lòng. Mất tất cả. Bao thiếu phụ trí thức bị đẩy ra khỏi thị thành lưu lạc chốn chợ đời vất vả. Còn chăng là nhân phẩm và nhân cách với tình thương con và sự chung thuỷ với chồng lưu đày biệt xứ, mà tồn tại, mà nuôi con cho thành người.
Nơi thâm sơn cùng cốc, người cha tù nhân cải tạo gánh chịu bao tai ương. Từ Cổng Trời, Thanh Cẩm, Hoàng Liên Sơn, Z30, U Minh, Suối Máu và bao chốn lao lung khác, các bác các chú mang nỗi niềm gì?
Người tù khổ sai chịu khổ hình nơi rừng sâu đất Bắc
Gió buốt mùa đông se sắt phận lưu đày
Suốt ngày lao lực, đêm đêm nhồi sọ giáo điều vô sản mà cồn cào cái đói nghiến dạ dày
Rừng thiêng nước độc giết lần lần thể lực
Bao căn bệnh chết người ngoác hàm chờ chực tấn công
Phù thủng, loảng xương, viêm gan cho đến sốt rét rừng
Chỉ ớt hiểm, kí-ninh là liều thuốc chữa
Bao bạn tù rục thây không về nữa
Và bao nhiêu người bị đầu độc nước uống thức ăn.
Nói làm sao cho hết và thương mấy cho vừa.
Các vị đánh đổi cuộc đời may mắn còn sót lại đưa con cái ra nước ngoài, nơi các vị đã lớn tuổi, bệnh tật, phụ thuộc vào người khác về ngôn ngữ, giao thông, giao tiếp và cách sống. Các bác, các cô chú lam lũ lặng thầm cho con cháu tới trường, hy sinh bỏ lại tất cả, có khi gác qua sĩ diện để đi bỏ báo, cắt cỏ, chạy bàn, giữ trẻ, may đồ, lươm lon, phế liệu, làm construction cho con cái được học hành. Cao quý thay sự hy sinh đến tận cùng ấy. Các bác các cô chú hy sinh tất cả, ngoại trừ nhân cách và lòng ái quốc. Vì vậy chúng ta mới có dịp gặp gỡ nơi đây.
Từ những suy tư đó, còn cách nào xứng đáng hơn là nối tiếp sự nghiệp, và tâm nguyện dở dang các vị chưa hoàn thành.
Các bạn trẻ thân mến, ai sẽ bước tiếp con đường cha chú đã khởi những bước đầu? Sứ mệnh ấy chúng ta cùng nhau gánh lấy. Cuộc đấu tranh của chúng ta không đòi hỏi hy sinh xương máu như thế hệ cha chú. Chúng tôi đề ra ba tiêu chuẩn như sau. Gọi là 3T:
1. Tâm: Chúng ta phải có tâm sáng, vì tiền đồ dân tộc mà hành động. Vì tình nghĩa đồng bào mà dấn thân, vì huynh đệ mà liên kết. Chúng ta dấn thân không vì danh lợi. Chúng ta giữ gìn và phát triển nhân cách.
2. Trí: Cha chú chúng ta đã chịu bao thiệt thòi cho chúng ta cơ hội tiến thân, chúng ta hãy trau dồi kiến thức, lĩnh hội kỹ năng và học hỏi nơi trường học, trường đời, ở xứ văn minh và tự do bậc nhất thế giới này.
3. Thân: Với tâm sáng, trí minh, chúng ta kiện toàn thân thể, vì muốn gánh vác việc chung chúng ta cần sức khoẻ và sức sống. Tuổi trẻ là tương lai dân tộc, mà dân tộc có mạnh hay không là do các thành viên có cường tráng và duyên sắc.
Kính thưa quý vị, hình ảnh ảm đạm thê lương của tháng ngày cũ đã qua, tương lai tươi sáng phía trước. Còn bước chân nào đẹp hơn khi con cháu cùng bước tiếp con đường cha anh đã đi.
Xin gửi nơi đây lời tri ân và ngưỡng mộ quý cha anh đã anh dũng chiến đấu cho tự do, chính nghĩa và lòng tri ân sâu sắc vì sự hy sinh cao quý của những người mẹ Việt Nam chịu thương chịu khó bao năm dài cay đắng.
Xin Ơn Trên tuôn đổ hồng phúc trên các vị, và trên mọi người chúng ta.
Chúng tôi (chúng con) với hy vọng là những người trẻ có kiến thức và nhiệt huyết, được sự ủng hộ của các cô chú bác VNCH và tham dự của các anh chị em hậu duệ VNCH khắp nơi, sẽ đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng lên nhóm Hậu Duệ VNCH - Hải Ngoại.
Chúng tôi xin kêu gọi các bạn trẻ, hậu duệ VNCH, còn thiết tha với lý tưởng cao đẹp Bảo Quốc An Dân của thế hệ Cha Anh VNCH, hãy cùng đến với anh chị em chúng tôi, cùng nhau sánh bước đi tiếp con đường của Cha Anh mà đích đến là một Việt Nam không còn Cộng Sản, với tự do, dân chủ và phú cường. Bên cạnh đó, chúng ta hãy cùng trao dồi, mở rộng và gìn giữ những kiến thức về tinh hoa của dân tộc Việt Nam qua lịch sử ngàn đời chống ngoại xâm phương Bắc, chống thôn tính của Chủ Nghĩa Cộng Sản ngoại lai, và hơn hết sẽ trao truyền lại cho thế hệ mai sau.
Chúng con xin đón nhận mọi ý kiến, đóng góp và chỉ dạy của thế hệ Cha Anh, cựu Quân - Dân - Cán - Chính VNCH cho những bước đi vững chắc của Hậu Duệ VNCH. Chúng con xin trân trọng chào đón tất cả quý vị có mặt tại đây hôm nay. Kính mong quý vị có một đêm thật vui tươi, thoải mái trong tình đồng hương xa xứ và bỏ qua những sai sót nếu có . Một lần nữa xin đại diện tất cả anh em HD VNCH Hải Ngoại xin chào đón tất cả quý vị đến với buổi ra mắt Uỷ Ban Vận Động Thành Lập Hậu Duệ VNCH Hải Ngoại tại Washington DC .
Xin Chân Thành cảm ơn quý vị !
Destiny Nguyễn
March 03, 2018 - Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn (Falls Church, VA)

Lễ Ra Mắt Hậu Duệ VNCH Hải Ngoại Tại Hoa Thịnh Đốn Ngày 3/3/2018

Lê Văn Khoa - Một Đời Cho Nghệ Thuật

Vietnam Film Club trân trọng giới thiệu Phim Tài Liệu năm 2018 về 
Nhạc sĩ, Nhiếp ảnh gia Lê Văn Khoa

-      1953. Lê Văn Khoa dấn thân vào các sinh hoạt của xã hội Việt Nam Cộng Hòa trong các lãnh vực: Giáo Dục, Tôn Giáo, Nhiếp Ảnh, và Âm Nhạc.
-      1975. Lê Văn Khoa tị nạn tại Hoa Kỳ. Miền đất Tự Do đã tạo cơ hội cho Lê Văn Khoa thực hiện giấc mơ: đưa nhạc Việt vào bầu trời âm nhạc thế giới. Nhạc giao hưởng của Lê Văn Khoa, và đặc biệt Đại Tấu Khúc Vietnam 1975 (Symphony Vietnam 1975) đã được trình diễn bởi các Ban Đại Hòa Tấu quốc tế nổi tiếng tại Úc, Ukraine, và các Tiểu Bang Hoa Kỳ từ năm 1995.
-      2018. Sự nghiệp về văn hoá, nghệ thuật, và Tinh Thần Dân Tộc của Lê Văn Khoa trong hơn 60 năm đóng góp cho Đất Nước được đúc kết trong cuốn phim tài liệu:

Lê Văn Khoa
Một Đời Cho Nghệ Thuật
A Lifetime of Arts

Buổi ra mắt phim đầu tiên sẽ được tổ chức tại:
C Royal - 23 Rue Léon Geffroy, 94400 Vitry-sur-Seine, Paris, Pháp

Từ 12:00 giờ đến 18:00 giờ chiều, Chúa Nhật, ngày 8 tháng 4 năm 2018 

Vietnam Film Club trân trọng kính mời Qúy Vị tham dự
Xin liên lạc Ban Tổ Chức
Điện thoại: 33 6 41 67 95 37 và 33 6 59 94 57 89

Xin mời vào trang điện tử của phim để biết thêm tin tức





"Lê Văn Khoa has devoted a lifetime of work to the understanding and tolerance of Vietnamese culture in America. He uses photography, music, and film to forge a better understanding between eastern and western cultures.  He has been recognized for his contribution on the education of youth through his Vietnamese television shows and for his orchestra compositions, which have been performed worldwide."
Vinh Kim Pham, Writer, USA

"Lê Văn Khoa takes his native pentatonic scales and gives them a fresh sonic perspective on the Ukrainian Bandura. This marriage of Vietnamese tonalities with Ukrainian timbres has created a joyful awareness and alliance between our cultures."
Violetta Dutchak, Professor of Music at Precarpathian National University of Ukraine

"National color is always found in Khoa 's music. His music is so distinctive in this regard."
Alla Kulbaba, Principal Conductor at National Opera of Ukraine

"Lê Văn Khoa has awakened in our young students' hearts a love of music and a love of photography, that they might not otherwise have had happened. And he has been so nurturing to our young people, and also to the wonderful artists we have in this community."
Diana Carey, Vice President of Rose Center Theater, USA